Nội dung tổ chức cảnh quan khu đô thị mới
Hội thảo cấp mở rộng với đề tài: “Tổ chức hạ tầng cảnh quan trong quy hoạch đô thị Huế”
Hà Giang: Gìn giữ không gian kiến trúc cảnh quan Du Già, tạo động lực cho phát triển du lịch
Kiến trúc cảnh quan đô thị Hà Nội – bảo tồn và phát huy giá trị
Master of Landscape Architecture
Cảnh quan khu đô thị mới:
Cảnh quan khu đô thị mới (new urban area landscape) có thể hiểu là cảnh quan được hình thành tự nhiên và nhân tạo. Tự nhiên là thảm xanh, hệ thực vật, sông nước, địa hình cùng quang cảnh sẵn có. Còn nhân tạo là do con người tạo nên, hình thành các không gian công cộng như vườn hoa, công viên, tuyến phố, quảng trường, sân chơi... và các không gian cảnh quan gắn liền với công trình kiến trúc công cộng, nhà ở... Cả hai thành phần này được quy hoạch và thiết kế cảnh quan một cách có tổ chức, thành công việc tổ chức cảnh quan khu đô thị mới là tạo ra môi trường thiên nhiên thứ hai phù hợp với thiên nhiên sẵn có và quy hoạch, kiến trúc tổng thể nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu sinh sống nghỉ ngơi giải trí cho con người.
Tổ chức cảnh quan khu đô thị mới:
Tổ chức cảnh quan hay tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan (Spatial organization of landscape) là việc quy hoạch và thiết kế các yếu tố cảnh quan tự nhiên và nhân tạo một cách khoa học, nhằm tối ưu hóa các giá trị sinh thái, thẩm mỹ và chức năng theo hướng phát triển bền vững.
Trong ranh giới các khu đô thị mới, nội dung tổ chức cảnh quan tập trung vào bốn vấn đề chính là: 1/ Quy hoạch cảnh quan; 2/ Thiết kế cảnh quan; 3/ Tổ chức kiến trúc trong cảnh quan; 4/ Hạ tầng cảnh quan. Bốn nội dung này có thể cho rằng khá tương đồng với một số nhận định đã được công bố. Chẳng hạn như theo Simon Bell (2004), Landscape: Pattern, Perception and Process: “Landscape organization is an interdisciplinary endeavor integrating planning, design, architecture, and infrastructure systems to shape meaningful and functional spaces.” Và theo Nguyễn Thị Hòa (2007), Giáo trình Quy hoạch và tổ chức không gian cảnh quan, NXB Xây Dựng: "Tổ chức không gian cảnh quan là một quá trình tổng hợp, bao gồm quy hoạch cảnh quan, thiết kế cảnh quan, tổ chức công trình kiến trúc và hệ thống hạ tầng trong không gian, nhằm tạo lập môi trường sống hài hòa và bền vững." Cụ thể của 4 nội dung này là:
1/ Quy hoạch cảnh quan
Quy hoạch cảnh quan (Landscape planning) liên quan tới việc tận dụng khai thác vị trí địa điểm trong mối quan hệ với các yếu tố thiên nhiên như thực vật, sông nước, địa hình..., tạo sự hình thành cảnh quan diện rộng. Các giải pháp tập trung vào bố cục cấu trúc không gian theo chức năng, thiết lập các hệ trục cảnh quan, tổ chức lưu tuyến giao thông và hình thái các khu vực theo nguyên tắc thẩm mỹ, xác định hệ thống giới hạn không gian đóng - mở và một số giải pháp cấu trúc không gian khác. Một số khu vực còn được nghiên cứu quy hoạch theo nguyên tắc tâm linh (Phong thủy).
2/ Thiết kế cảnh quan
Thiết kế cảnh quan (Landscape design) liên quan nhiều tới nghệ thuật tạo hình cảnh quan hơn. Nó không chỉ đơn thuần là nghệ thuật tạo cảnh, biến hình mà còn là nghệ thuật kết hợp linh hoạt các yếu tố cấu thành cảnh quan tự nhiên và nhân tạo thành các bộ thị giác thẩm mỹ. Khác với kiến trúc thông thường, thiết kế các yếu tố cấu thành cảnh quan cần lưu ý các đặc tính tự nhiên của chúng, sự sinh trưởng và kịch bản thay đổi theo mùa.
Các thiết kế cảnh quan này thông thường xuất phát từ 2 ý tưởng là 1) ý tưởng triết học, nguồn cảm hứng và 2) ý tưởng các công năng đặc thù. Ý tưởng về mặt triết học mang tính bao quát trừu tượng, sẽ thống nhất thiết kế về mặt tinh thần, phong cách, ngôn ngữ, hình tượng của không gian. Còn ý tưởng công năng sẽ xác định quy mô khu vực cảnh quan, các lưu tuyến, vị trí cấp độ điểm nhấn, điểm nhìn, giới hạn không gian phù hợp với nhu cầu sử dụng của con người. Từ 2 ý tưởng này sẽ tiếp tục khai triển thành Hình và Không gian. “Từ ý đến hình” là quy trình sắp xếp những hình dạng cụ thể và đặc thù, thành 1 hệ thống tổng thể. Hai tư tưởng khác nhau trong khai triển hình là 1) dạng hình học (geometric form) và 2) dạng tự nhiên (naturalistic form). Còn triển khai không gian là xác định các giới hạn không gian: sẽ tạo ra các không gian mở, không gian đóng, không gian đóng – mở (Khối ở trong CQ) theo trường nhìn thị giác và phối kết hợp các yếu tố cảnh quan thành kịch bản trải nghiệm, hoạt động, sử dụng trong không gian.
Áp dụng vào các không gian cảnh quan trong KĐTM thường bao gồm: Cảnh quan các khu vực công cộng, cảnh quan các khu vực gắn với công trình công cộng và nhà ở.
3/ Tổ chức Kiến trúc trong cảnh quan
Là việc sắp xếp, bố trí các công trình kiến trúc trong cảnh quan theo vị trí, cấu trúc, phân khu công năng, mật độ nhằm tạo ra môi trường sống tổng thể. Trong khu đô thị mới, việc tổ chức các công trình kiến trúc trong cảnh quan bao gồm:
Công trình lớn: Bao gồm việc tổ hợp sắp xếp các công trình kiến trúc công cộng và nhà ở.
Công trình nhỏ: Bao gồm việc tổ hợp sắp xếp và thiết kế các công trình kiến trúc nhỏ, công trình điểm nhấn, biểu tượng, tác phẩm nghệ thuật và các trang thiết bị cảnh quan.
4/ Hạ tầng cảnh quan
Bao gồm kỹ thuật san nền, giao thông, cấp và thoát nước, kè bờ, điện, chiếu sáng dưới góc độ cảnh quan. Việc tích hợp giữa hạ tầng kỹ thuật và các yếu tố cảnh quan tạo ra các giải pháp theo hướng sinh thái và phát triển bền vững. Hạ tầng cảnh quan bao gồm: San nền cảnh quan; Giao thông cảnh quan; Cấp và thoát nước cảnh quan; Kè bờ; Chiếu sáng cảnh quan; Âm thanh cảnh quan.
Tài liệu tham khảo:
- Simon Bell (2004) – Landscape: Pattern, Perception and Process
 - Grant W.Reid, Hà Nhật Tân dịch (2006), Từ ý đến hình trong thiết kế cảnh quan, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
 - Trần Đình Hiếu (2024), Kiến trúc cảnh quan, NXB Xây dựng
 - Nguyễn Thị Hòa (2007) – Giáo trình Quy hoạch và tổ chức không gian cảnh quan, NXB Xây Dựng
 - Phạm Anh Tuấn (2024), "Hạ tầng cảnh quan - giải pháp phát triển hạ tầng nông thôn bền vững", Tạp chí Xây dựng.
 
ThS. KTS. Doãn Minh Thu
NCM Kiến trúc Cảnh quan
Khoa Kiến trúc và Quy hoạch
Trường Đại học Xây dựng Hà Nội


